View Edit Attributes History Attach Print Search | ||
Menu | PTL / ĐọcBàiVănTếNghĩaSĩCầnGiuộcCủaCụNguyễnĐìnhChiểu | |
Menu
Options |
Đọc Bài “Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”của Nguyễn Đình ChiểuPHẠM VĂN CẢNH, Thạc sĩ., Hội Khoa Học Lịch Sử TP.HCM Có thể nói người nông dân áo vải Việt Nam đã hiên ngang dõng dạc bước vào nền văn học chữ viết (văn chương bác học) với hình ảnh người anh hùng đầu trần , chân đất mà làm nên lịch sử trong “Bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Đó là một hình ảnh đẹp, sống và có thực, xảy ra sau đêm 16 tháng 12 năm 1861 khi nghĩa binh và một số binh sĩ của triều đình, căm thù quân xâm lược đã tổ chức chiếm lại đồn Cần Giuộc, nhưng cuối cùng Pháp phản công, nghĩa binh đã hy sinh trên dưới 20 người. Nhân dân và quan tuần phủ Gia Định đã tổ chức lễ truy điệu các anh hùng liệt sĩ. Cụ Đồ Chiểu là người được ủy thác viết bài văn tế này, đã bày tỏ tấm lòng của toàn dân ca ngợi và tiếc thương hình ảnh những người nghĩa sĩ đã vì nước quên mình. Bài văn ra đời có sức sống kỳ diệu, gây xúc động sâu sắc cho người dân tham dự, làm rung động lòng người cả nước, khiến chính vua Tự Đức đã cho khắc in bản văn này và phát tán khắp nơi, đến nay nó vẫn được lưu truyền cả bằng văn bản in, chép tay và truyền khẩu… Bài văn tế viết theo thể phú Đường luật, nhưng nội dung và ngôn ngữ đã đi sâu vào lòng người, nhất là người dân Nam bộ, bởi qua đó người dân miền Nam đã nhìn thấy hình ảnh quê hương đất nước mình với giòng sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, chùa Tông Thạnh, ấp Thanh Ba, xã Mỹ Lộc … họ cũng thấy được bản thân mình - người nông dân áo vải, với cuộc sống cày cuốc quanh năm, đầu trần chân đất, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước . Tục ngữ ta có câu “ Gió cả mới hay cây cứng”; nhìn người nông dân trong cuộc sống bình thường, lao động cuốc cày, mấy ai biết được tấm lòng người dân quê yêu nước mạnh mẽ và to lớn dường nào ? Chỉ những khi vận nước nguy nan, kẻ thù tràn vào bờ cõi “Súng giặc đất rền” người dân mới có cơ hội bộc lộ hết được tấm lòng nghĩa khí “lòng dân trời tỏ ” Tấm lòng ấy không những chỉ có trong giới sĩ phu như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị… “…Vì thế liều mình cơn nước lửa, Ai mà có thấu hỡi ai ơi !” (Hột Lúa_Phan Văn Trị) mà trong lớp đáy tầng ở thôn quê, sau lũy tre làng vẫn hừng hực một tấm lòng sắt son yêu nước. Phép lung khởi trong 2 vế song quan mở đầu bài văn tế chính là tuyên ngôn của cuộc đấu tranh. Khi tiếng súng giặc ngoại xâm nổ rền trên đất nước ta, cũng chính là lúc tấm lòng yêu nước của người dân được bộc lộ cao cả, sáng ngời đến đất trời cũng rõ : Nhưng cũng chính người nông dân nghèo “chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ”đó, không nghèo lòng yêu nước. Họ đã phải sống trong vùng bị giặc tạm chiếm đă ba năm, chung đụng đủ mùi tanh hôi của lũ giặc tham tàn, lòng căm hận càng sôi sục : Rõ ràng trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc hình tượng người nông dân Việt được miêu tả chân thực đến lạ lùng. Chỉ cần bốn câu đã xuất hiện hơn mười chi tiết, mô tả đầy đủ hình ảnh động đặc, tập trung của người nghĩa sĩ nông dân Nam bộ, thể hiện cả vóc dáng, cuộc sống và phẩm chất anh hùng của họ, ta có thể kiểm chứng như sau : So với cũng hình ảnh người nghĩa sĩ trong các bài Văn tế tướng sĩ trận vong của Nguyễn Văn Thành và Bài Văn tế Cao Thắng , thì hình ảnh nhân vật nông dân trong các bài đó, khắc họa chưa đậm nét, sự mô tả còn mang tính ước lệ, tượng trưng… như “nắm mũi thuyền toan cướp giáo… chen chân ngựa quyết giật cờ…” hoặc “… theo dòng Nhạc Mục, thét nhung bào từng ghe trận oai linh…; trọng cương thường quyết mở mặt nam nhi…” thì rõ ràng, hình tượng người nghĩa sĩ nông dân của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc đã vượt xa các nhân vật trong văn tế truyền thống về mức độ chân thực. Những con người chân quê ấy chưa từng “ tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,… chưa biết đến … chốn trường nhung,…vì - chẳng phải quân cơ quân vệ”… cũng có nghĩa là họ chưa từng được trang bị đầy đủ cho cuộc chiến đấu, họ đã tự khẳng định mình chỉ là dân ấp, dân lân và chỉ có một vũ khí trang bị đó là lòng yêu nước “…mến nghĩa làm quân chiêu mộ” Động cơ của lòng yêu nước, lòng căm thù giặc bắt nguồn chính từ cuộc sống lao động thật giản dị, chân thực và cảm động, mà vẫn không kém phần chính nghĩa : “Nhưng nghĩ rằng : tấc đất ngọn rau ân chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó ”. Thăng hoa ý nghĩa lên, đó chính là cuộc chiến đấu cho tổ quốc, nhưng hình ảnh tổ quốc ở đây không trừu tượng mà là cái gần gũi bình dị gắn bó với người dân “tấc đất, ngọn rau, chén cơm, manh áo”. Đó cũng là cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ cái nôi văn hoá, nếp sống, tín ngưỡng lâu đời, bảo vệ nền văn minh bản địa: đạo thờ cúng ông bà, đạo lý làm nguời biết chết vinh còn hơn sống nhục : Từ quan niệm sống trong tủi nhục của người dân mất nước, tác giả nêu bật lẽ chết vinh quang của người nghĩa sĩ : Tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm là gởi lại đời sau, gởi vào ánh trăng vằng vặc giữa trời đêm, ánh trăng toả sáng khắp các nẻo không gian tăm tối, ánh trăng tròn đầy viên mãn của sứ mạng đã hoàn thành. Hay nói một cách khác ánh trăng rằm vằng vặc đó chính là tấm lòng son của người nghĩa sĩ ? tấm lòng son của Nguyễn Đình Chiểu ? Bởi vì : “Đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn”, mối căm hờn khôn nguôi trong lòng người dân mất nước ! Tác giả còn nâng cao sự hy sinh của người chiến sĩ đến mức độ xưa nay chưa thấy : Sau khi sống, họ vẫn còn chiến đấu, người nghĩa sĩ kia vẫn mang nặng mối thù non nước mà ngầm giúp cho nghĩa binh đời sau quyết trả được mối hờn non nước. Ở đây quan niệm sống chết của người Việt ta cũng được bộc lộ, người chết vẫn còn mối dây liên hệ gắn bó với người sống, mỗi khi người sống gặp khó khăn, bế tắc, đều tìm sự an ủi, giúp đỡ nơi người chết … Chính cái ý này đã được Hoàng Trọng Mậu (Nguyễn Đức Công ) nhắc đến trong một câu đối : Có thể nói bài Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, lần đầu tiên đã khắc họa chân dung sinh động của người nghĩa sĩ nông dân kháng Pháp. từ đó, gợi ta liên tưởng vai trò người nông dân trong sự nghiệp giữ nước của mọi thời đại. Qua đó cũng bộc lộ tấm lòng của cụ Đồ Chiểu với con người và đất nước. Một tấm lòng thẳng băng, trước sau như một : Anh trăng rằm vẫn toả sáng giữa bầu trời tổ quốc, ánh trăng vẫn soi lối chỉ đường cho con cháu mai sau biết lẽ đúng sai, “thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ”, cũng là tấm lòng Mẹ Mốc, mà tâm hồn thanh khiết của cụ Nguyễn Khuyến đã gởi gắm vào đó, khi cáo quan về cảnh ruộng vườn để cố giữ “mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ”. |
|
View Edit Attributes History Attach Print Search Page last modified on June 03, 2015, at 02:20 PM |